Trang Chủ Tbc Các loại thuốc chống lao để điều trị bệnh lao
Các loại thuốc chống lao để điều trị bệnh lao

Các loại thuốc chống lao để điều trị bệnh lao

Mục lục:

Anonim

Mặc dù phải mất nhiều thời gian nhưng bệnh lao (TB) có thể được chữa khỏi hoàn toàn bằng cách uống đúng thuốc và luôn tuân thủ các quy tắc uống thuốc lao. Nguyên nhân là, nếu điều trị lao không thành công, căn bệnh này sẽ ngày càng khó chữa. Bản thân việc điều trị bệnh lao bao gồm hai giai đoạn bằng cách sử dụng kết hợp một số loại thuốc chống sinh vật.

Những loại kháng sinh nào được sử dụng cho bệnh lao và quy tắc dùng thuốc như thế nào? Hãy xem giải thích chi tiết hơn về điều trị lao trong bài đánh giá sau đây.

Hai giai đoạn điều trị lao ở Indonesia

Bệnh lao xảy ra khi vi khuẩn gây bệnh lao, cụ thể là Mycobacterium tuberculosis, tích cực lây nhiễm hoặc nhân lên trong cơ thể (lao hoạt động). Bệnh lao tấn công phổi có thể được chữa khỏi bằng cách điều trị từ 6-9 tháng.

Hình thức điều trị lao ở Indonesia bao gồm 2 giai đoạn, đó là giai đoạn điều trị tích cực và điều trị theo dõi.

Báo cáo từ Trung tâm Thông tin Thuốc Quốc gia, trong hai giai đoạn điều trị, bệnh nhân uống thuốc kháng sinh và thuốc chống nhiễm trùng tổng hợp.

Điều trị được thực hiện với sự kết hợp của một số loại kháng sinh được gọi là nhóm chống lao. Các loại thuốc được sử dụng hoạt động cho 3 chức năng lâm sàng, đó là tiêu diệt, khử trùng (làm sạch cơ thể) và ngăn ngừa sự kháng thuốc của vi khuẩn.

1. Giai đoạn chuyên sâu

Ở giai đoạn điều trị tích cực, bệnh nhân cần uống thuốc lao hàng ngày trong thời gian 2 tháng. Điều trị chuyên sâu nhằm mục đích giảm số lượng vi khuẩn gây bệnh lao và ngừng lây nhiễm để bệnh nhân không còn khả năng truyền bệnh.

Hầu hết những bệnh nhân có tình trạng truyền nhiễm đều có khả năng trở thành không lây nhiễm (không lây nhiễm) trong vòng 2 tuần nếu được điều trị tích cực đúng cách. Các loại thuốc điều trị lao được sử dụng trong giai đoạn này có thể khác nhau, tùy thuộc vào phác đồ điều trị phù hợp với từng loại bệnh nhân.

Danh mục bệnh nhân lao

Bản thân loại bệnh nhân được xác định từ tiền sử điều trị và kết quả AFB (xét nghiệm đờm). Nhìn chung, có 3 loại bệnh nhân lao, đó là:

  • Trường hợp mới loại I
    Những bệnh nhân có kết quả phết tế bào dương tính nhưng chưa được điều trị chống lao dưới 4 tuần, hoặc kết quả âm tính với bệnh lao ngoài phổi nặng (một bệnh nhiễm khuẩn tấn công các cơ quan khác ngoài phổi).
  • Tái phát loại II
    Bệnh nhân đã được tuyên bố khỏi bệnh sau khi hoàn thành điều trị, nhưng kết quả dương tính.
  • Các trường hợp không thành công loại II
    Bệnh nhân AFB vẫn dương tính hoặc dương tính trở lại sau 5 tháng điều trị.
  • Điều trị loại II bị gián đoạn
    Những bệnh nhân đã được điều trị, nhưng dừng lại và trở lại với kết quả phết tế bào hoặc X quang dương tính cho thấy tình trạng lao đang hoạt động.
  • Loại III
    Bệnh nhân chụp X-quang dương tính với tình trạng lao ngoài phổi nhẹ.
  • Bệnh nhân mãn tính
    Bệnh nhân AFB vẫn dương tính sau khi điều trị lại.

Những bệnh nhân có phết tế bào âm tính và bị lao ngoài phổi có thể nhận được một lượng thuốc nhỏ hơn ở giai đoạn này.

2. Giai đoạn nâng cao

Trong giai đoạn điều trị tiên tiến, số lượng và liều lượng thuốc điều trị lao được đưa ra sẽ giảm xuống. Thường chỉ có 2 loại thuốc. Tuy nhiên, thời gian còn kéo dài hơn, khoảng 4 tháng ở những bệnh nhân thuộc loại ca bệnh mới.

Giai đoạn điều trị theo dõi là rất quan trọng để đảm bảo rằng vi khuẩn không hoạt động được loại bỏ hoàn toàn khỏi cơ thể, do đó ngăn ngừa các triệu chứng lao tái phát.

Không phải tất cả bệnh nhân lao đều cần được điều trị tích cực và theo dõi tại bệnh viện. Tuy nhiên, đối với những trường hợp nặng (khó thở dữ dội hoặc có triệu chứng lao ngoài phổi), bệnh nhân cần nhập viện.

Các loại thuốc điều trị lao đầu tiên

Có 5 loại thuốc điều trị lao thường được kê đơn, đó là:

  • Isoniazid
  • Rifampicin
  • Pyrazinamide
  • Ethambutol
  • Strptomycin

Năm loại thuốc điều trị lao kể trên thường được gọi là thuốc chính hoặc thuốc đầu tay.

Trong mỗi giai đoạn điều trị lao, bác sĩ sẽ cho kết hợp nhiều loại thuốc chống lao. Sự kết hợp của các loại thuốc lao và liều lượng được xác định theo tình trạng và loại bệnh nhân lao để chúng có thể khác nhau.

Sau đây là phần giải thích về từng loại thuốc điều trị lao đầu tiên:

1.Isoniazid (INH)

Isoniazid là một loại thuốc chống lao có hiệu quả nhất trong việc tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh lao. Thuốc này có thể tiêu diệt 90% vi trùng lao trong vòng vài ngày ở giai đoạn điều trị tích cực.

Isoniazid có hiệu quả hơn trong việc tiêu diệt vi khuẩn đang phát triển tích cực. Thuốc này hoạt động bằng cách can thiệp vào quá trình sản xuất axit mycolic, cụ thể là các hợp chất có vai trò xây dựng thành vi khuẩn.

Một số tác dụng phụ của thuốc lao isoniazid bao gồm:

  • Ảnh hưởng đến thần kinh, chẳng hạn như rối loạn thị giác, chóng mặt, mất ngủ, hưng phấn, thay đổi hành vi, trầm cảm, các vấn đề về trí nhớ, rối loạn cơ.
  • Quá mẫn, chẳng hạn như sốt, ớn lạnh, đỏ da, sưng hạch bạch huyết, viêm mạch (viêm mạch máu).
  • Tác dụng về huyết học, chẳng hạn như thiếu máu, tan máu (tổn thương các tế bào hồng cầu), giảm tiểu cầu (giảm mức độ tiểu cầu).
  • Rối loạn tiêu hóa: buồn nôn, nôn, táo bón, ợ chua.
  • Nhiễm độc gan: tổn thương gan do hóa chất trong thuốc.
  • Các tác dụng phụ khác: nhức đầu, hồi hộp, khô miệng, bí tiểu, thấp khớp.

Nếu bạn bị bệnh gan mãn tính, các vấn đề về thận hoặc tiền sử động kinh, hãy nói với bác sĩ của bạn. Bằng cách đó, việc cho isoniazid sẽ cẩn thận hơn. Ngoài ra, người uống rượu, bệnh nhân trên 35 tuổi, phụ nữ có thai phải được giám sát đặc biệt.

2. Rifampicin

Thuốc này là một loại kháng sinh có nguồn gốc từ rifamicin, giống như isoniazid. Rifampicin có thể tiêu diệt vi trùng mà thuốc isoniazid không thể tiêu diệt được.

Rifampicin có thể tiêu diệt vi khuẩn bán hoạt động thường không phản ứng với isoniazid. Thuốc này hoạt động bằng cách can thiệp vào các enzym của vi khuẩn.

Một số tác dụng phụ có thể phát sinh do điều trị lao bằng rifampicin là:

  • Khó tiêu, chẳng hạn như ợ chua, đau dạ dày, buồn nôn, nôn, đầy bụng, chán ăn, co thắt dạ dày, tiêu chảy.
  • Rối loạn hệ thần kinh trung ương, chẳng hạn như buồn ngủ, mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, lú lẫn, khó tập trung, rối loạn thị giác, thư giãn cơ
  • Quá mẫn, chẳng hạn như sốt, tưa miệng, tán huyết, ngứa, suy thận cấp tính
  • Nước tiểu đổi màu do chất màu đỏ trong thuốc rifampicin
  • Rối loạn kinh nguyệt hoặc ho ra máu (ho ra máu)

Tuy nhiên, đừng lo lắng vì những tác dụng phụ này chỉ là tạm thời. Rifampicin cũng là một nguy cơ nếu phụ nữ mang thai tiêu thụ vì nó làm tăng khả năng sinh con bị các vấn đề về cột sống (nứt đốt sống).

3. Pyrazinamide

Khả năng của pyrazinamide là tiêu diệt vi khuẩn sống sót sau khi bị đại thực bào (một phần của tế bào bạch cầu đầu tiên chống lại sự nhiễm trùng do vi khuẩn trong cơ thể) kháng lại. Thuốc này cũng có thể hoạt động để tiêu diệt vi khuẩn trong các tế bào có độ pH axit.

Một tác dụng phụ điển hình của việc sử dụng thuốc điều trị lao này là tăng axit uric trong máu (tăng axit uric máu). Đó là lý do tại sao bệnh nhân lao phổi được kê đơn thuốc này cũng phải thường xuyên kiểm soát nồng độ axit uric của họ.

Ngoài ra, các tác dụng phụ khác có thể xảy ra là người bệnh cũng sẽ chán ăn, nhiễm độc gan, buồn nôn, nôn.

4. Ethambutol

Ethambutol là một chất chống lao có thể ức chế khả năng lây nhiễm của vi khuẩn, nhưng không thể tiêu diệt vi khuẩn trực tiếp. Thuốc này được dùng đặc biệt cho những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh lao kháng thuốc (kháng thuốc). Tuy nhiên, nếu nguy cơ kháng thuốc thấp, có thể ngừng điều trị bệnh lao bằng ethambutol.

Cách thức hoạt động của ethambutol là kìm khuẩn, có nghĩa là nó ức chế sự phát triển của vi khuẩn M. tuberculosis kháng thuốc isoniazid và streptomycin. Thuốc điều trị lao này cũng ngăn chặn sự hình thành của thành tế bào bằng cách axit mycolic.

Ethambutol không được khuyến cáo cho bệnh lao ở trẻ em dưới 8 tuổi vì có thể gây rối loạn thị giác và rất khó kiểm soát tác dụng phụ. Các tác dụng phụ của ethambutol có thể phát sinh là:

  • Rối loạn thị giác
  • Mù màu
  • Thu hẹp tầm nhìn
  • Đau đầu
  • Buồn nôn và ói mửa
  • Đau bụng

5. Streptomycin

Streptomycin là loại kháng sinh đầu tiên được thiết kế đặc biệt để chống lại vi khuẩn gây bệnh lao. Trong điều trị bệnh lao hiện nay, người ta dùng streptomycin để ngăn chặn tác dụng của thuốc kháng lao.

Cách thức hoạt động của loại thuốc trị lao này là tiêu diệt vi khuẩn đang phân chia bằng cách ức chế quá trình tạo ra protein của vi khuẩn.

Thuốc trị lao streptomycin được dùng bằng cách tiêm vào mô cơ (tiêm bắp / IM). Thông thường, loại thuốc tiêm này được tiêm nếu bạn đã mắc bệnh lao lần thứ hai hoặc việc sử dụng thuốc uống streptomycin không còn hiệu quả.

Việc dùng thuốc trị lao này phải chú ý xem bệnh nhân có vấn đề về thận, đang mang thai, có vấn đề về thính giác hay không. Thuốc này có tác dụng phụ là phá vỡ sự cân bằng của thính giác nếu dùng hơn 3 tháng.

Phác đồ điều trị lao dựa trên loại bệnh nhân

Như đã giải thích trước đây, có 3 loại bệnh nhân lao được xác định dựa trên kết quả AFB và tiền sử điều trị. Danh mục này xác định rõ hơn loại phác đồ điều trị nào là phù hợp.

Trang Thông tin về bệnh lao cho biết, phác đồ điều trị là sự kết hợp các loại thuốc dùng cho người bệnh lao với một mã tiêu chuẩn nhất định, thường ở dạng số và chữ in hoa xác định giai đoạn, thời gian điều trị và loại thuốc.

Ở Indonesia, sự kết hợp của thuốc chống lao có thể được cung cấp dưới dạng gói thuốc rời kombipak hoặc thuốc chống lao kết hợp liều cố định (OAT-KDT). Gói kombipak này cho thấy phác đồ điều trị bệnh lao ở Indonesia. Một gói kombipak dành cho một loại bệnh nhân trong một giai đoạn điều trị.

Báo cáo từ các tài liệu của Bộ Y tế Indonesia, các mã được sử dụng trong phác đồ điều trị bệnh lao là:

Kombipak loại I

(Giai đoạn chuyên sâu / giai đoạn nâng cao)

• 2HRZE / 4H3R3

• 2HRZE / 4HR

• 2HRZE / 6HE

Kombipak loại II

(Giai đoạn chuyên sâu / giai đoạn nâng cao)

• 2HRZES / HRZE / 5H3R3E3

• 2HRZES / HRZE / 5HRE

Kombipak loại III

(Giai đoạn chuyên sâu / giai đoạn nâng cao)

• 2HRZ / 4H3R3

• 2HRZ / 4HR

• 2HRZ / 6HE

Với mô tả cho thấy:

H = Isoniazid, R = Rifampin, Z = Pyrazinamide, E = Ethambutol, S = Streptomycin

Trong khi đó, các con số trong mã chỉ ra thời gian và tần suất. Số ở mặt trước hiển thị thời gian sử dụng, ví dụ ở mức 2HRZES, nghĩa là mỗi ngày sử dụng trong 2 tháng. Trong khi đó, số đằng sau các chữ cái cho biết số lần sử dụng thuốc, như trong 4H3R3 có nghĩa là 3 lần một tuần trong 4 tháng.

Khi tư vấn, bác sĩ thường sẽ cung cấp hướng dẫn về các quy tắc sử dụng kombipak này.

OAT-KDT

Trong khi đó, OAT-KDT hay nói chung làKhắc phục sự kết hợp liều lượng (FDC) là hỗn hợp 2-4 loại thuốc chống lao đã được đóng vào một viên.

Việc sử dụng loại thuốc này rất có lợi vì có thể tránh được rủi ro kê đơn không đúng liều lượng và giúp bệnh nhân tuân thủ các quy định về thuốc dễ dàng hơn. Với số lượng viên nhỏ hơn, người bệnh dễ dàng quản lý và ghi nhớ việc sử dụng thuốc.

Cũng có một loại thuốc trị lao được tiêm mỗi ngày trong một tháng nếu ở cuối giai đoạn chuyên sâu, bệnh nhân loại I và bệnh nhân tái điều trị (loại II) có kết quả phết tế bào dương tính.

Nếu bạn bị lao tiềm ẩn, là tình trạng cơ thể bạn đã bị nhiễm vi khuẩn M. tuberculosis, nhưng vi khuẩn không nhân lên tích cực, bạn cũng cần phải dùng thuốc điều trị lao ngay cả khi bạn không xuất hiện các triệu chứng của bệnh lao phổi đang hoạt động. Thông thường, bệnh lao tiềm ẩn sẽ được điều trị bằng sự kết hợp của thuốc rifampicin và isoniazid trong 3 tháng.

Thuốc điều trị lao kháng thuốc bậc hai

Ngày nay, ngày càng có nhiều vi khuẩn kháng thuốc điều trị lao đầu tiên. Tình trạng kháng thuốc có thể do việc dùng thuốc bị gián đoạn, lịch dùng thuốc không đều đặn hoặc do bản chất của vi khuẩn đã kháng với một số loại kháng sinh.

Tình trạng này được gọi là lao đa kháng thuốc (Kháng nhiều loại). Thông thường, vi khuẩn gây bệnh lao kháng hai loại thuốc điều trị lao, đó là rifampicin và isoniazid.

Những người mắc bệnh lao đa kháng thuốc sẽ được điều trị lao bằng cách sử dụng các loại thuốc thứ hai. Trong nghiên cứu có tên Điều trị Lao và Chế độ Thuốc, việc sử dụng thuốc theo khuyến cáo của WHO cho bệnh nhân lao kháng thuốc, cụ thể là:

  • Pyrazinamide
  • Amikacin có thể được thay thế bằng kanamycin
  • Ethionamide hoặc prothionamide
  • Cycloserine hoặc PAS

Một số loại thuốc điều trị lao hàng thứ hai khác cũng được WHO phê duyệt là:

  • Capreomycin
  • Axit para-aminosalicylic (PAS)
  • Ciprofloxacin
  • Ofloxacin
  • Levofloxacin

Bệnh nhân lao kháng thuốc cũng phải làm lại các giai đoạn điều trị lao từ đầu nên tổng thời gian cần kéo dài hơn, cụ thể là ít nhất 8-12 tháng, khả năng xấu nhất có thể lên đến 24 tháng. Các tác dụng phụ của việc điều trị có thể còn nghiêm trọng hơn.

Tại sao điều trị lao lại mất nhiều thời gian?

Vi khuẩn gây bệnh lao, Mycobacterium tuberculosis (MTB), là một loại vi khuẩn có khả năng chống chịu với điều kiện môi trường axit. Khi đã vào trong cơ thể, những vi khuẩn này có thể "ngủ yên" trong một thời gian dài, hay còn gọi là trong giai đoạn không hoạt động. Đó là, nó ở trong cơ thể, nhưng không sinh sản.

Hầu hết các loại kháng sinh, kể cả những loại được dùng làm thuốc điều trị lao, chỉ có chức năng tiêu diệt vi khuẩn khi chúng ở giai đoạn hoạt động. Trên thực tế, trong trường hợp vi khuẩn lao đang hoạt động, cũng có những vi khuẩn đang ở giai đoạn không hoạt động (không hoạt động).

Trong nghiên cứu có tên Tại sao cần phải điều trị dài hạn để chữa bệnh lao? Người ta cũng nói rằng MTB có hai dạng đề kháng, đó là kiểu hình (chịu ảnh hưởng của môi trường) và kiểu gen (yếu tố di truyền).

Nghiên cứu cho thấy rằng lượng vi khuẩn dồi dào sẽ làm tăng khả năng kháng thuốc kiểu hình. Do đó, một số vi khuẩn có thể kháng lại một số loại kháng sinh trong cùng một thời gian điều trị. Điều này có nghĩa là vi khuẩn có thể kháng thuốc cần được điều trị. Đó là nguyên nhân khiến thời gian điều trị lao kéo dài hơn.

Các loại thuốc chống lao để điều trị bệnh lao

Lựa chọn của người biên tập