Trang Chủ Đục thủy tinh thể Thiếu máu ở phụ nữ mang thai: nguyên nhân, cách điều trị và phòng ngừa
Thiếu máu ở phụ nữ mang thai: nguyên nhân, cách điều trị và phòng ngừa

Thiếu máu ở phụ nữ mang thai: nguyên nhân, cách điều trị và phòng ngừa

Mục lục:

Anonim

Những thay đổi của cơ thể phụ nữ mang thai sẽ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe. Bạn sẽ cần lượng máu tươi gấp đôi so với trước đây. Nếu nhu cầu máu này không được đáp ứng, phụ nữ mang thai sẽ dễ bị thiếu máu. Bệnh thiếu máu ở bà bầu không nên bỏ qua vì có thể gây hại cho chính mình và thai nhi trong bụng mẹ.

\


x

Các dạng thiếu máu ở phụ nữ mang thai thường gặp

1. Thiếu máu do thiếu sắt

Như đã mô tả ở trên, thiếu máu ở phụ nữ mang thai thường do các vấn đề thiếu sắt gây ra. Thiếu máu này được gọi là thiếu máu do thiếu sắt.

Sắt cần thiết để giúp cơ thể sản sinh ra các tế bào hồng cầu tươi giàu oxy và chất dinh dưỡng.

Lưu lượng máu, oxy và chất dinh dưỡng là rất quan trọng để hỗ trợ sự tăng trưởng và phát triển của thai nhi và duy trì tình trạng nhau thai tối ưu.

Nguyên nhân chính của thiếu sắt là do không ăn đủ thức ăn giàu chất sắt, chẳng hạn như đạm động vật, từ trước và trong khi mang thai.

Tuy nhiên, chỉ cung cấp sắt từ thực phẩm sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu của bạn trong suốt thai kỳ.

Trên thực tế, khi mang thai lượng máu sẽ tăng lên đến 50 phần trăm để có thể đáp ứng nhu cầu của bản thân và thai nhi đang phát triển.

Đó là lý do tại sao nhu cầu sắt hàng ngày của cơ thể cũng phải được đáp ứng thông qua việc bổ sung sắt, để tránh tình trạng thiếu hồng cầu.

2. Thiếu máu do thiếu folate

Thiếu máu do thiếu folic xảy ra khi cơ thể thiếu axit folic (vitamin B9) từ thực phẩm. Loại thiếu máu này cũng có thể xảy ra do kém hấp thu.

Hấp thu kém có nghĩa là cơ thể không thể hấp thụ axit folic một cách hiệu quả. Điều này thường là do chứng khó tiêu, chẳng hạn như bệnh celiac.

Axit folic là một loại vitamin quan trọng để duy trì sức khỏe để tránh tình trạng này.

Chức năng của axit folic là hình thành các protein mới trong cơ thể tạo ra các tế bào hồng cầu và hình thành DNA trong bào thai.

Đáp ứng nhu cầu axit folic có thể ngăn ngừa nguy cơ trẻ sinh ra bị dị tật ống thần kinh như tật nứt đốt sống và thiếu não lên tới 72%.

3. Thiếu máu do thiếu vitamin B12

Cơ thể cần vitamin B12 để giúp sản xuất các tế bào hồng cầu. Nếu phụ nữ mang thai không ăn thực phẩm giàu vitamin B12, các triệu chứng thiếu máu ở phụ nữ mang thai có thể xuất hiện.

Rối loạn tiêu hóa như bệnh celiac và bệnh Crohn cũng có thể cản trở cơ thể hấp thụ vitamin B12 thích hợp.

Ngoài ra, thói quen uống rượu bia khi mang thai cũng có thể gây ra tình trạng thiếu máu ở bà bầu do thiếu vitamin B12.

Các dấu hiệu và triệu chứng của thiếu máu ở phụ nữ mang thai

Các triệu chứng thiếu máu ở phụ nữ mang thai có thể vô hình nên thường bị bỏ qua. Tuy nhiên, khi bạn già đi, các triệu chứng có thể trở nên tồi tệ hơn.

Vì vậy, hãy nhận biết và đề phòng các triệu chứng thiếu máu ở phụ nữ mang thai như:

  • Cơ thể lúc nào cũng cảm thấy yếu ớt, mệt mỏi và uể oải
  • Chóng mặt
  • Khó thở
  • Nhịp tim nhanh hoặc không đều
  • Đau hoặc tức ngực
  • Màu da, môi và móng tay trở nên nhợt nhạt
  • Tay chân lạnh
  • Khó tập trung

Trên đây là những đặc điểm của bệnh thiếu máu ở phụ nữ mang thai mẹ bầu cần lưu ý.

Nguyên nhân thiếu máu ở phụ nữ mang thai

Thiếu máu là tình trạng xảy ra khi cơ thể thiếu lượng hồng cầu thấp hơn giới hạn bình thường.

Báo cáo từ Mayo Clinic, tình trạng này cũng có thể xảy ra nếu các tế bào hồng cầu không chứa đủ hemoglobin có nhiệm vụ phân phối oxy đi khắp cơ thể.

Thiếu máu đỏ có thể khiến cơ thể mệt mỏi hoặc suy nhược nhanh chóng do các cơ quan trong cơ thể không nhận đủ oxy và chất dinh dưỡng. Bạn cũng có thể gặp các triệu chứng khác, chẳng hạn như khó thở, chóng mặt hoặc đau đầu.

Tình trạng này nói chung là do vấn đề suy dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai và bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nội tiết tố cơ thể làm thay đổi quá trình sản xuất tế bào máu.

Một số tình trạng sức khỏe bên cạnh thiếu máu như chảy máu, bệnh thận và rối loạn hệ thống miễn dịch cũng có thể khiến cơ thể thiếu hồng cầu.

Các yếu tố làm tăng nguy cơ thiếu máu ở phụ nữ mang thai

Thiếu máu có thể xảy ra với bất kỳ ai, nhưng phụ nữ mang thai là một trong những đối tượng dễ gặp phải căn bệnh này nhất.

Tất cả phụ nữ mang thai đều có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu. Thiếu máu là do cơ thể không thể đáp ứng nhu cầu về máu, sắt và axit folic nhiều hơn trong thai kỳ.

Thiếu máu cũng có nguy cơ cao nhất ở những bà mẹ có các tình trạng sau:

  • Đang mang thai đôi. Càng chứa nhiều trẻ sơ sinh, lượng máu cần thiết càng nhiều.
  • Hai lần mang thai trong thời gian sắp tới.
  • Nôn và buồn nôn vào buổi sáng (ốm nghén).
  • Mang thai ở tuổi vị thành niên.
  • Thiếu tiêu thụ thực phẩm giàu sắt và axit folic.
  • Đã bị thiếu máu từ trước khi mang thai.

Nguy cơ thiếu máu ở phụ nữ mang thai và thai nhi

Đây là một trong những vấn đề sức khỏe thường gặp ở phụ nữ mang thai, nhưng không nên coi thường.

Căn bệnh này, thường được gọi là thiếu máu, không phải là tình trạng có thể tự chữa lành.

Nếu số lượng tế bào hồng cầu trong cơ thể quá thấp, người mẹ và thai nhi có thể bị thiếu chất dinh dưỡng và oxy, điều này sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn của họ.

Thiếu máu trầm trọng trong tam cá nguyệt đầu tiên được báo cáo là làm tăng các vấn đề khác nhau như:

  • Nguy cơ thai nhi chậm phát triển hoặc thai nhi không phát triển trong bụng mẹ
  • Trẻ sinh non
  • Sinh con nhẹ cân (LBW)
  • Điểm APGAR thấp

Thiếu máu trầm trọng ở phụ nữ mang thai cũng có thể gây tổn thương các cơ quan quan trọng như não và tim dẫn đến tử vong.

Ngoài ra, thiếu máu cũng liên quan đến nguy cơ sẩy thai, mặc dù thực sự chưa có nghiên cứu xác thực nào có thể khẳng định điều đó.

Tình trạng thiếu máu cứ tiếp tục diễn ra mà không cần điều trị sẽ làm tăng nguy cơ mẹ bị mất nhiều máu trong quá trình sinh nở.

Các điều kiện khiến phụ nữ mang thai cần truyền máu

Thời điểm thích hợp để bà bầu được truyền máu? Thiếu máu được cho là ở giai đoạn nặng và cần được đưa đến phòng cấp cứu khi mức Hb dưới 7 g / dL.

Phụ nữ mang thai có mức Hb khoảng 6-10 g / dL cũng được khuyến cáo truyền máu ngay lập tức nếu họ có tiền sử chảy máu sau sinh hoặc các rối loạn huyết học trước đó.

Cần truyền máu nếu tình trạng thiếu máu khiến nồng độ Hb của phụ nữ mang thai giảm mạnh xuống dưới 6 g / dL và bạn sẽ sinh con trong vòng chưa đầy 4 tuần.

Các mục tiêu truyền máu phổ biến cho phụ nữ có thai là:

  • Hb> 8 g ​​/ dL
  • Tiểu cầu> 75.000 / uL
  • Thời gian prothrombin (PT) <1,5 lần kiểm soát
  • Thời gian Prothrombin được kích hoạt (APTT) <1,5 lần điều khiển
  • Fibrinogen> 1,0 g / l

Nhưng cần phải nhớ rằng, quyết định truyền máu của bác sĩ không chỉ dựa vào chỉ số Hb của bạn.

Nếu bác sĩ cho rằng thai kỳ của bạn ổn định, hay không có nguy cơ, mặc dù mức Hb của bạn dưới 7 g / dL, bạn không cần truyền máu.

Điều này được trích dẫn từ Ủy ban Cố vấn Chuyên nghiệp về Dịch vụ Truyền máu và Cấy ghép Mô của Vương quốc Anh (JPAC).

Cách chẩn đoán thiếu máu ở phụ nữ mang thai

Nguy cơ thiếu máu trong thai kỳ có thể được xác định thông qua xét nghiệm máu khi khám thai trong ba tháng đầu.

Xét nghiệm này cũng rất được khuyến khích cho những phụ nữ mang thai có nguy cơ hoặc không bao giờ xuất hiện các triệu chứng thiếu máu trong thời kỳ đầu mang thai.

Xét nghiệm máu thường bao gồm xét nghiệm hemoglobin (đo lượng Hb trong máu) và xét nghiệm hematocrit (đo tỷ lệ phần trăm hồng cầu trên mỗi mẫu).

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và CDC tại Hoa Kỳ nói rằng phụ nữ mang thai được cho là bị thiếu máu nếu nồng độ hemoglobin (Hb) của họ trong tam cá nguyệt thứ nhất và thứ ba dưới 11 g / dL hoặc hematocrit (Hct) của họ là ít hơn 33 phần trăm.

Trong khi đó, thiếu máu trong tam cá nguyệt thứ hai xảy ra khi mức Hb dưới 10,5 g / dL hoặc Hct dưới 32 phần trăm sau khi được xét nghiệm.

Bác sĩ của bạn có thể sẽ phải tiến hành các xét nghiệm máu khác để xác định xem thiếu máu là do thiếu sắt hay do các nguyên nhân khác.

Bộ Y tế Cộng hòa Indonesia khuyến cáo mọi phụ nữ mang thai nên xét nghiệm máu, bao gồm cả việc kiểm tra nồng độ Hb.

Tốt nhất là một lần trong lần khám phụ khoa đầu tiên trong tam cá nguyệt thứ hai và một lần nữa trong tam cá nguyệt thứ ba. Điều này nhằm tìm hiểu xem bạn có bị thiếu máu hay không, bệnh thường xảy ra ở phụ nữ mang thai.

Bác sĩ sản khoa cũng có thể giới thiệu bạn đến bác sĩ huyết học, bác sĩ chuyên về các vấn đề và bệnh về máu. Bác sĩ huyết học có thể giúp đỡ và kiểm soát tình trạng thiếu máu.

Cách đối phó với tình trạng thiếu máu ở phụ nữ mang thai

Để khắc phục tình trạng thiếu máu trong thai kỳ, sau đây là một số điều cần làm, đó là:

1. Ăn những thực phẩm bổ dưỡng đặc biệt

Bác sĩ có thể khuyên bạn nên ăn những thực phẩm giàu dinh dưỡng và có giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt là những thực phẩm giàu sắt và axit folic hàng ngày.

Ban đầu, bạn sẽ chỉ cần bổ sung 0,8 mg sắt mỗi ngày trong tam cá nguyệt đầu tiên, lên đến 7,5 mg mỗi ngày trong tam cá nguyệt thứ ba.

Trong khi đó, mức tăng lượng axit folic cho mỗi người thường dao động từ 400 - 600 mcg mỗi ngày, tùy thuộc vào khuyến nghị của bác sĩ.

Được đưa ra từ trang Hiệp hội Mang thai Hoa Kỳ, các loại thực phẩm chứa nhiều chất sắt để điều trị chứng thiếu máu ở phụ nữ mang thai, cụ thể là:

  • Thịt nạc nấu chín (thịt bò hoặc thịt gia cầm)
  • Hải sản nấu chín như cá, mực, sò và tôm
  • Trứng nấu chín
  • Các loại rau xanh, chẳng hạn như rau bina và cải xoăn
  • Đậu Hà Lan
  • Sản phẩm sữa tiệt trùng
  • Khoai tây
  • Lúa mì

Trong khi các loại thực phẩm giàu folate gây thiếu máu ở phụ nữ mang thai bao gồm:

  • Các loại rau lá xanh, chẳng hạn như rau bina, bông cải xanh, cần tây, đậu xanh, củ cải xanh hoặc rau diếp
  • Họ cam quýt
  • Bơ, đu đủ, chuối
  • Các loại hạt như đậu Hà Lan, đậu tây, đậu nành, đậu xanh
  • Hạt hướng dương (kuaci)
  • Lúa mì
  • Lòng đỏ trứng

2. Tiêu thụ nhiều vitamin C

Tình trạng này được khắc phục bằng cách tiêu thụ rau và trái cây có nhiều vitamin C, chẳng hạn như cam, dâu tây, kiwi, bông cải xanh, súp lơ, cà chua và ớt.

Vitamin C giúp cơ thể hấp thụ sắt từ thức ăn hiệu quả hơn.

Nhu cầu vitamin C hàng ngày cũng có thể được đáp ứng bằng cách uống bổ sung vitamin C, nhưng trước tiên bạn nên hỏi ý kiến ​​bác sĩ để việc điều trị được kiểm soát tốt.

Tuy nhiên, chỉ cung cấp đầy đủ lượng dinh dưỡng từ thực phẩm có thể không đủ đối với phụ nữ mang thai. Vì vậy, bạn cần thực hiện bước tiếp theo để giảm thiểu rủi ro.

3. Uống thuốc bổ

Bước đầu tiên trong điều trị thiếu máu ở phụ nữ mang thai, bác sĩ sẽ khuyên bạn nên bắt đầu bổ sung sắt, vitamin B12 và axit folic ngoài các vitamin trước khi sinh.

Dùng liều đầu tiên của chất bổ sung tốt nhất là vào buổi sáng để không làm trầm trọng thêm cảm giác buồn nôn và nôn. ốm nghén,cộng thêm do thiếu máu ở phụ nữ có thai.

Nếu bạn phải uống sau khi ăn, hãy đợi một giờ trước khi nuốt vitamin để không cảm thấy buồn nôn.

Phụ nữ mang thai cũng có thể uống thuốc bổ trước khi đi ngủ để giảm nguy cơ buồn nôn sau đó. Đừng quên uống nhiều nước sau khi ăn sinh tố để giảm tình trạng thiếu máu ở bà bầu.

CDC khuyến cáo phụ nữ mang thai bị thiếu máu nên bổ sung sắt ở mức 30 mg mỗi ngày kể từ lần đầu tiên kiểm tra tử cung của họ để ngăn ngừa thiếu máu do thiếu sắt.

Trong khi đó, để bổ sung folate thiếu máu ở phụ nữ mang thai, WHO và Bộ Y tế Indonesia khuyến cáo nên uống với liều lượng 400 mcg / ngày.

Bạn nên làm điều này càng sớm càng tốt ngay khi bạn có kế hoạch mang thai và tiếp tục cho đến 3 tháng sau khi sinh.

Cách phòng ngừa thiếu máu ở phụ nữ mang thai

Báo cáo của Chương trình tổng hợp sức khỏe bà mẹ và trẻ em cho biết, một trong những biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa thiếu máu ở phụ nữ mang thai là uống thuốc bổ sung sắt.

Ngoài ra, có thể bắt đầu phòng ngừa thiếu máu khi mang thai bằng cách điều chỉnh chế độ ăn uống của bạn cho tốt hơn, chẳng hạn như:

  • Uống bổ sung axit folic và sắt (60 mg sắt và 400 mcg axit folic).
  • Ăn thực phẩm có nhiều chất sắt (thịt, gà, cá, trứng và lúa mì).
  • Ăn thực phẩm giàu axit folic (đậu khô, yến mạch, nước cam và rau xanh).
  • Uống bổ sung và thực phẩm có chứa vitamin C (trái cây tươi và rau quả).

Cũng lưu ý rằng sắt từ các nguồn thực phẩm động vật, chẳng hạn như thịt, có thể được cơ thể hấp thụ tốt hơn sắt từ rau hoặc trái cây.

Thiếu máu ở phụ nữ mang thai: nguyên nhân, cách điều trị và phòng ngừa

Lựa chọn của người biên tập