Trang Chủ Loãng xương Xét nghiệm chức năng gan để phát hiện bệnh gan, quy trình như thế nào?
Xét nghiệm chức năng gan để phát hiện bệnh gan, quy trình như thế nào?

Xét nghiệm chức năng gan để phát hiện bệnh gan, quy trình như thế nào?

Mục lục:

Anonim

Xét nghiệm chức năng gan là xét nghiệm máu dùng để chẩn đoán và sàng lọc chức năng gan. Loạt xét nghiệm này đo lường các enzym mà tế bào gan tiết ra để phản ứng với tổn thương hoặc bệnh tật. Dưới đây là thông tin chi tiết hơn về bài kiểm tra phổ biến này.

Kiểm tra những gì trong các xét nghiệm chức năng gan?

Xét nghiệm máu gan thường bao gồm sáu xét nghiệm riêng biệt được thực hiện trên một mẫu máu duy nhất. Loạt bài kiểm tra này bao gồm:

1. Alanine aminotransferase (ALT)

Một loại enzym được gọi là ALT được giải phóng từ các tế bào gan. Nói chung, ALT cũng có trong máu nhưng ở mức thấp. Phạm vi bình thường của mức ALT trong máu là từ 5 đến 60 IU / L (Đơn vị quốc tế trên lít).

ALT có thể rò rỉ vào mạch máu khi có bệnh ở gan hoặc tế bào gan bị tổn thương hoặc chết đi. Sự gia tăng ALT trong máu có thể do bất kỳ loại viêm gan nào (do virus, do rượu hoặc do thuốc gây ra). Ngoài ra, sốc hoặc ngộ độc thuốc có thể làm tăng nồng độ ALT.

Bất kể lượng ALT trong máu là bao nhiêu, tình trạng viêm hoặc chết tế bào gan chỉ có thể được theo dõi bằng sinh thiết gan. Mặc dù mức ALT trong mạch máu là một phép đo định lượng trực tiếp, nó không thể được sử dụng để chẩn đoán tổn thương gan hoặc sự tiến triển của bệnh.

2.Aspartate aminotransferase (AST)

AST là một loại enzym ty thể được tìm thấy trong gan, tim, cơ, thận và não. Trong hầu hết các trường hợp tổn thương gan, mức ALT và AST tăng theo tỷ lệ khoảng 1: 1. Phạm vi bình thường của nồng độ AST trong máu là từ 5 đến 43 IU / L.

3. Alkaline phosphatase (ALP)

ALP được tìm thấy trong nhiều mô cơ thể (ruột, thận, nhau thai và xương) và được sản xuất trong đường mật và màng hình sin của gan. Nếu ống mật bị tắc nghẽn, mức ALP sẽ tăng lên. Ngoài ra, ALP sẽ tăng trong trường hợp xơ gan, viêm đường mật xơ cứng và ung thư gan.

Ngoài ra, bệnh xương, suy tim sung huyết và cường giáp có thể gây ra mức ALP cao bất ngờ. Mức ALP tăng có thể do các vấn đề về gan gây ra nếu mức GGT cũng tăng lên. Phạm vi bình thường của nồng độ ALP trong máu là từ 30 đến 115 IU / L.

4. Bilirubin

Bilirubin là một chất lỏng màu vàng có trong máu và được sản xuất trong gan bởi các tế bào hồng cầu chết theo tuổi tác. Gan lọc các tế bào hồng cầu cũ khỏi dòng máu trong một quá trình biến đổi hóa học được gọi là liên hợp. Các tế bào này sau đó được giải phóng vào mật, sau đó được chuyển hóa và một số được tái hấp thu vào ruột.

Mức độ bilirubin có thể tăng do các bệnh khác nhau, bao gồm cả bệnh gan. Nếu gan bị tổn thương, bilirubin có thể rò rỉ vào máu và gây ra bệnh vàng da (vàng da), có màu vàng ở mắt và da kèm theo nước tiểu sẫm màu và phân có màu sáng. Nguyên nhân làm tăng nồng độ bilirubin bao gồm:

  • Viêm gan siêu vi
  • Tắc nghẽn ống mật
  • Bệnh xơ gan
  • Các bệnh gan khác

Xét nghiệm bilirubin toàn phần đo lượng bilirubin trong mạch máu. Tổng mức bilirubin bình thường nằm trong khoảng 0,20-1,50 mg / dl (miligam trên decilit). Xét nghiệm bilirubin trực tiếp (bilirubin direct) đo bilirubin được sản xuất trong gan. Mức bilirubin trực tiếp bình thường nằm trong khoảng từ 0,00 đến 0,03 mg / dl.

5. Albumin

Albumin là protein phong phú nhất trong máu và được sản xuất bởi gan. Thử nghiệm albumin là dễ nhất, đáng tin cậy nhất và không tốn kém. Gan không sản xuất đủ protein với chức năng thích hợp có thể dẫn đến mức albumin thấp. Ban đầu nồng độ albumin thường ở mức bình thường trong bệnh gan mãn tính cho đến khi cuối cùng xơ gan và / hoặc các bệnh gan khác trở nên đủ nghiêm trọng và ngăn cản việc sản xuất protein của gan.

Ngoài ra, suy dinh dưỡng, một số bệnh thận và các tình trạng khác hiếm gặp hơn có thể gây ra giảm nồng độ albumin. Albumin duy trì lượng máu trong tĩnh mạch và động mạch. Nếu nồng độ albumin giảm đáng kể, chất lỏng có thể rò rỉ từ máu vào mô xung quanh, gây sưng mắt cá chân và lòng bàn chân. Phạm vi bình thường của nồng độ albumin trong máu là từ 3,9 đến 5,0 g / dl (gam / decilit).

6.Tổng protein (TP)

TP là một xét nghiệm máu để đo albumin và tất cả các protein khác trong máu, bao gồm các kháng thể giúp chống lại nhiễm trùng. Nhiều lý do khác nhau có thể gây ra sự tăng hoặc giảm bất thường của lượng protein, chẳng hạn như bệnh gan, bệnh thận, ung thư máu, suy dinh dưỡng hoặc cơ thể phù nề bất thường. Mức bình thường của protein trong máu từ 6,5 đến 8,2 g / dl.

Xin chào Nhóm Sức khỏe không cung cấp lời khuyên, chẩn đoán hoặc điều trị y tế.


x
Xét nghiệm chức năng gan để phát hiện bệnh gan, quy trình như thế nào?

Lựa chọn của người biên tập