Mục lục:
- Thuốc và phương pháp điều trị ung thư buồng trứng
- 1. Hoạt động
- 2. Hóa trị
- Các lựa chọn thuốc hóa trị khác
- 3. Bức xạ
- 4. Liệu pháp hormone
- Chất chủ vận hormone giải phóng hormone luteinizing (LHRH)
- Tamoxifen
- Chất ức chế Aromatase
- 5. Liệu pháp nhắm mục tiêu
- Bevacizumab (Avastin)
- Chất ức chế PARP
- Lối sống lành mạnh để hỗ trợ điều trị ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng gây ra các khối u phát triển trong buồng trứng, là các tuyến có nhiệm vụ sản xuất trứng (noãn) và hormone sinh dục ở phụ nữ. Nếu không điều trị, các tế bào ung thư có thể di căn đến ống dẫn trứng để đến các hạch bạch huyết lân cận, xâm lấn các mô lành khác, thậm chí gây biến chứng nặng hơn là ung thư buồng trứng. Vậy, những loại thuốc và phương pháp điều trị để chữa khỏi bệnh ung thư buồng trứng (buồng trứng) là gì?
Thuốc và phương pháp điều trị ung thư buồng trứng
Nói chung, ung thư buồng trứng giai đoạn 1, 2 và 3 có thể chữa được. Tuy nhiên, một số bệnh nhân ung thư giai đoạn 3 đã khá nặng và giai đoạn 4 không thể chữa khỏi.
Họ đang được điều trị để giảm các triệu chứng mà họ cảm thấy ung thư buồng trứng. Ngoài ra, việc điều trị vẫn đang được tiến hành để làm chậm sự lây lan của tế bào ung thư để chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Trước khi được chỉ định điều trị, bạn cần làm một loạt các xét nghiệm y tế để chẩn đoán ung thư buồng trứng. Sau khi có kết quả thì bác sĩ mới chỉ định phương pháp điều trị phù hợp.
Sau đây là những cách điều trị ung thư thường được các bác sĩ khuyên dùng, bao gồm:
1. Hoạt động
Ung thư này có nhiều loại, nhưng có tới 75% là loại u biểu mô. Nói chung, phương pháp điều trị được lựa chọn cho cả bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn đầu và giai đoạn muộn là phẫu thuật cắt bỏ các tế bào khối u.
Cách chữa ung thư buồng trứng không dùng thuốc này do bác sĩ chuyên khoa ung bướu phụ khoa thực hiện. Mục đích là để xem mức độ lan rộng của các tế bào ung thư (dàn dựng) và loại bỏ càng nhiều càng tốt khối u đã di căn sang các mô khác.
Đôi khi, bác sĩ phẫu thuật thực hiện các hoạt động sinh thiết trên các hạch bạch huyết trong xương chậu và bụng. Mục đích là lấy mô làm mẫu để quan sát sự hiện diện hay vắng mặt của tế bào ung thư trong khu vực.
Phẫu thuật điều trị ung thư buồng trứng, các bác sĩ có thể cắt bỏ tử cung cùng với buồng trứng và ống dẫn trứng. Thủ tục y tế này được gọi là phẫu thuật cắt bỏ tử cung hai bên-salpingo-oophorectomy. Nếu buồng trứng và / hoặc tử cung bị cắt bỏ, điều đó có nghĩa là bệnh nhân không thể mang thai và đang bước vào thời kỳ mãn kinh sớm hơn bình thường.
Ngoài ra, bác sĩ có thể cắt bỏ u mỡ, là lớp mô mỡ bao phủ thành phần dạ dày và ung thư buồng trứng đã xâm lấn khu vực này. Thủ tục y tế này còn được gọi là phẫu thuật cắt bỏ tử cung.
Khi ung thư di căn đến ruột già hoặc ruột non, bác sĩ sẽ cắt bỏ phần ruột bị ảnh hưởng và khâu lại phần còn lại của phần ruột khỏe mạnh.
Sau khi phẫu thuật ung thư buồng trứng, bệnh nhân phải nằm viện 7 ngày. Việc phục hồi cơ thể để trở lại các hoạt động hàng ngày sau khi phẫu thuật ung thư buồng trứng mất từ 4 đến 6 tuần.
2. Hóa trị
Ngoài phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được khuyến nghị hóa trị. Hóa trị là điều trị ung thư buồng trứng bằng cách sử dụng các loại thuốc có thể được thực hiện trước hoặc sau khi phẫu thuật. Với phương pháp hóa trị, sự lây lan của ung thư (di căn) có thể được ngăn chặn, khối u cũng có thể được giảm kích thước, giúp phẫu thuật dễ dàng hơn.
Thuốc được sử dụng trong hóa trị ung thư buồng trứng có thể được sử dụng bằng cách tiêm vào tĩnh mạch hoặc uống. Thuốc có thể đi vào máu và đến bất kỳ khu vực nào của cơ thể bị ảnh hưởng bởi ung thư.
Ở khối u biểu mô, các bác sĩ sẽ sử dụng hai loại thuốc khác nhau. Lý do là, việc sử dụng hai loại thuốc có tác dụng tốt hơn với tư cách là phương pháp điều trị đầu tiên cho bệnh ung thư buồng trứng. Loại kết hợp thuốc được sử dụng là hợp chất bạch kim(cisplatin hoặc carboplatin) và thuốc phân loại, chẳng hạn như docetaxel, được truyền bằng cách tiêm truyền cứ 3 hoặc 4 tuần một lần.
Số chu kỳ hóa trị phụ thuộc vào giai đoạn ung thư buồng trứng của bệnh nhân và loại thuốc được sử dụng, thường đạt từ 3-6 chu kỳ. Chu kỳ là một lịch trình dùng thuốc đều đặn, sau đó là thời gian nghỉ ngơi.
Các khối u biểu mô có thể thu nhỏ và biến mất khi hóa trị, nhưng chúng cũng có thể tái phát trở lại. Nếu trong vòng 6 đến 12 tháng, đợt hóa trị đầu tiên có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư, bệnh nhân có thể sử dụng lại các loại thuốc này khi bệnh tái phát.
Các lựa chọn thuốc hóa trị khác
Nếu các loại thuốc trên không hiệu quả, bác sĩ sẽ chỉ định các loại thuốc hóa trị khác cho bệnh nhân ung thư buồng trứng, chẳng hạn như:
- Altretamine (Hexalen®)
- Capecitabine (Xeloda®)
- Cyclophosphamide (Cytoxan®)
- Gemcitabine (Gemzar®)
- Ifosfamide (Ifex®)
Bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn 3 với sự lây lan của ung thư gần như đến khoang sẽ được hóa trị trong phúc mạc (IP). Điều này có nghĩa là các loại thuốc cisplatin và paclitaxel được tiêm vào khoang bụng thông qua một ống thông thông qua một thủ tục phẫu thuật. Thuốc có thể đi theo máu để tiếp cận các tế bào ung thư bên ngoài khoang bụng.
Phụ nữ bị ung thư buồng trứng và dùng thuốc hóa trị IP thường gặp các tác dụng phụ, từ buồn nôn, nôn mửa đến đau dạ dày. Những tác dụng phụ này ở những phụ nữ đang hóa trị ung thư buồng trứng khiến họ cần thuốc giảm đau do ung thư để các tác dụng phụ ít nghiêm trọng hơn.
Trong ung thư buồng trứng loại u tế bào mầm, bác sĩ sẽ cho một lúc nhiều loại thuốc khác nhau. Sự kết hợp của các loại thuốc này được gọi là BEP, bao gồm bleomycin, etoposide và cisplatin. Trong khi đó, loại rối loạn chức năng này có thể được chữa khỏi bằng sự kết hợp của thuốc carboplatin và etoposide mà ít tác dụng phụ hơn.
Theo báo cáo của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, nếu ung thư không đáp ứng với thuốc, bác sĩ sẽ cung cấp các loại thuốc khác, chẳng hạn như:
- MẸO (paclitaxel / Taxol, ifosfamide và cisplatin / Platinol)
- Veip (vinblastine, ifosfamide và cisplatin / Platinol)
- VIP (etoposide / VP-16, ifosfamide và cisplatin / Platinol)
- VAC (vincristine, dactinomycin và cyclophosphamide)
Hóa trị hiếm khi được sử dụng để điều trị ung thư buồng trứng, một loại khối u mô đệm. Tuy nhiên, khi thực hiện hóa trị, các loại thuốc được sử dụng là thuốc PEB (cisplatin, etoposide và bleomycin).
Các tác dụng phụ khác có thể xảy ra do hóa trị liệu ung thư buồng trứng bao gồm bầm tím và chảy máu, cực kỳ mệt mỏi và dễ bị nhiễm trùng.
3. Bức xạ
Ngoài việc sử dụng thuốc hóa trị, người bệnh cũng có thể xạ trị như một phương pháp điều trị ung thư buồng trứng. Liệu pháp điều trị ung thư buồng trứng sử dụng tia X năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư trong một quy trình tương tự như khi bạn chụp X-quang thông thường.
Mặc dù hiếm khi được khuyến cáo, xạ trị hữu ích để tiêu diệt các tế bào ung thư buồng trứng đã di căn, ví dụ như trong não hoặc tủy sống. Xạ trị chùm tia bên ngoài là loại được ưa thích và được thực hiện 5 lần mỗi tuần trong vài tuần.
Trong khi đó, loại xạ trị hiếm khi được thực hiện là liệu pháp xạ trị (đặt một thiết bị phóng xạ vào cơ thể gần các tế bào ung thư). Các tác dụng phụ thường gặp khi điều trị ung thư buồng trứng là bỏng rát và bong tróc da, tiêu chảy, buồn nôn, nôn và kích ứng âm đạo.
4. Liệu pháp hormone
Điều trị ung thư buồng trứng khác với ung thư bằng thuốc không chỉ bằng hóa trị. Có những phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như liệu pháp hormone. Trong liệu pháp này, các bác sĩ sử dụng thuốc ngăn chặn hormone để chống lại bệnh ung thư.
Phương pháp điều trị ung thư buồng trứng này ít được áp dụng đối với các khối u biểu mô mà thường được sử dụng để điều trị các khối u mô đệm. Một số loại thuốc được sử dụng trong liệu pháp hormone bao gồm:
Chất chủ vận hormone giải phóng hormone luteinizing (LHRH)
Thuốc LHRH hay còn gọi là GnRH có thể làm giảm nồng độ estrogen bằng cách ức chế sản xuất hormone này trong buồng trứng.
Ví dụ về nhóm thuốc này là goserelin và leuprolide, được tiêm từ 1 đến 3 tháng một lần. Tác dụng phụ của thuốc điều trị ung thư buồng trứng là khô âm đạo và tăng nguy cơ loãng xương.
Tamoxifen
Tamoxifen thường được sử dụng để điều trị ung thư vú, nhưng nó cũng có thể điều trị khối u stoma và khối u biểu mô tiến triển. Thuốc này hoạt động như một chất chống estrogen để nó có thể ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư.
Tác dụng phụ của việc sử dụng các loại thuốc này trong liệu pháp hormone là bốc hỏa, khô âm đạo và tăng nguy cơ đông máu nghiêm trọng ở chân.
Chất ức chế Aromatase
Thuốc ức chế Aromatase là loại thuốc điều trị ung thư buồng trứng có tác dụng làm giảm nồng độ estrogen ở phụ nữ sau khi mãn kinh. Thông thường, thuốc được sử dụng để điều trị các khối u mô đệm quay trở lại.
Ví dụ về nhóm thuốc này là letrozole (Femara®), anastrozole (Arimidex®) và exemestane (Aromasin®) dùng một lần một ngày. Các tác dụng phụ của thuốc này là nóng bừng, đau khớp và cơ và loãng xương khiến xương dễ gãy.
5. Liệu pháp nhắm mục tiêu
Cách tiếp theo để điều trị ung thư buồng trứng là liệu pháp nhắm mục tiêu. Các loại thuốc được sử dụng trong điều trị này hoạt động bằng cách tấn công các tế bào ung thư bằng cách làm hỏng DNA của tế bào.
Mặc dù nguyên nhân của ung thư buồng trứng không được biết chắc chắn, nhưng nguyên nhân phổ biến nhất của ung thư là do đột biến DNA trong tế bào. Bằng cách làm hỏng hệ thống DNA của tế bào ung thư, các tế bào này sẽ chết. Một số loại thuốc trong liệu pháp nhắm mục tiêu thường được sử dụng để điều trị ung thư buồng trứng là:
Bevacizumab (Avastin)
Bevacizumab đã được chứng minh là có khả năng thu nhỏ và làm chậm sự phát triển của ung thư buồng trứng, một loại khối u biểu mô. Thuốc này hoạt động tốt khi kết hợp với hóa trị liệu.
Bevacizumab cũng có thể được kê đơn cùng với olaparib ở những phụ nữ có đột biến gen BRCA. Gen này là gen di truyền trong gia đình có thể làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư vú và ung thư ruột kết. Thuốc được tiêm tĩnh mạch 2 đến 3 tuần một lần.
Tác dụng phụ của loại thuốc điều trị ung thư buồng trứng này là làm tăng huyết áp, giảm số lượng bạch cầu, gây lở miệng, đau đầu. và tiêu chảy.
Chất ức chế PARP
Chất ức chế PARP là sự kết hợp của các loại thuốc Olaparib (Lynparza), rucaparib (Rubraca) và niraparib (Zejula). Ở những phụ nữ có đột biến gen BRCA1 và BRCA2, con đường enzyme PARP bị chặn lại bởi các gen này. Bản thân enzyme PARP là một loại enzyme có liên quan đến việc sửa chữa các DNA bị hư hỏng trong tế bào.
Do đó, thuốc ức chế PARP có tác dụng ngăn chặn gen BRCA ngăn chặn con đường chuyển hóa enzym PARP để sửa chữa các tế bào bị tổn thương. Ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn cuối, cho dù họ có gen BRCA hay không, bác sĩ thường cho dùng olaparib và rucaparib. Thuốc này được thực hiện một lần một ngày.
Đối với thuốc niraparib, nó thường được sử dụng khi ung thư buồng trứng đã thu nhỏ sau khi điều trị hóa chất bằng thuốc cisplatin hoặc carboplatin.
Lối sống lành mạnh để hỗ trợ điều trị ung thư buồng trứng
Các phương pháp điều trị ung thư buồng trứng rất đa dạng. Bác sĩ sẽ giúp bạn xác định phương pháp điều trị phù hợp nhất tùy theo tình trạng của cơ thể và giai đoạn ung thư mà bạn mắc phải. Nếu các triệu chứng ung thư buồng trứng vẫn xuất hiện và bạn không cảm thấy tốt hơn khi điều trị, hãy hỏi ý kiến bác sĩ điều trị tình trạng của bạn.
Tuy nhiên, cần phải nhắc lại rằng điều trị ung thư không phải là một phương pháp điều trị duy nhất. Bệnh nhân cũng được yêu cầu thay đổi lối sống theo bệnh nhân ung thư, có như vậy việc điều trị mới đạt hiệu quả cao hơn.
Những thay đổi lối sống này bao gồm áp dụng một chế độ ăn kiêng chữa ung thư buồng trứng, sau đó tránh các lựa chọn thực phẩm khác nhau có khả năng làm tăng nguy cơ ung thư, tập thể dục thường xuyên và nghỉ ngơi đầy đủ. Người bệnh cũng phải điều trị theo khuyến cáo của bác sĩ và thực hiện đều đặn cho đến khi loại bỏ hoàn toàn tế bào ung thư ra khỏi cơ thể.