Trang Chủ Bệnh da liểu 5 lựa chọn thuốc điều trị HIV được sử dụng để điều trị HIV / thuốc hỗ trợ
5 lựa chọn thuốc điều trị HIV được sử dụng để điều trị HIV / thuốc hỗ trợ

5 lựa chọn thuốc điều trị HIV được sử dụng để điều trị HIV / thuốc hỗ trợ

Mục lục:

Anonim

Điều trị HIV và AIDS thường được các bác sĩ khuyến nghị bằng cách sử dụng liệu pháp kháng vi-rút (ARV). Liệu pháp này bao gồm sự kết hợp của các loại thuốc kháng vi-rút đối với nhiễm HIV. Điều trị bằng thuốc ARV được khuyến cáo cho tất cả mọi người sống chung với HIV / AIDS (PLWHA), bất kể họ đã bị nhiễm bao lâu hoặc tình trạng của họ ra sao.

Vì vậy, những lựa chọn cho thuốc kháng vi-rút như một cách điều trị HIV và AIDS là gì?

Cách điều trị HIV / AIDS bằng thuốc kháng vi rút (ARV)

HIV / AIDS là một tình trạng mãn tính do nhiễm trùng vi rút suy giảm miễn dịch ở người.

Ở những người bị nhiễm HIV, hệ thống miễn dịch sẽ suy yếu, khó bảo vệ khỏi các bệnh truyền nhiễm khác nhau. Đối với hầu hết mọi người, dùng thuốc ARV rất hiệu quả trong việc kiểm soát các triệu chứng HIV.

Loại thuốc này được kỳ vọng sẽ kiểm soát nhiễm vi-rút để bệnh nhân PLWHA có thể sống khỏe mạnh đồng thời giảm nguy cơ lây truyền cho người khác.

Thuốc kháng vi rút (ARV) hoạt động bằng cách giảm lượng tải lượng vi rút HIV đã xuống mức thấp đến mức có thể không phát hiện được vi rút trong xét nghiệm tải lượng vi rút đối với HIV.

Bằng cách đó, nhiễm HIV không thể gây ra xáo trộn trong hệ thống miễn dịch. Tải lượng vi rút HIV là tỷ lệ giữa số hạt vi rút HIV trên 1 mililit trong máu.

Ngoài ra, theo trang thông tin HIV.gov, người nhiễm HIV / AIDS thường xuyên dùng thuốc ARV có nguy cơ lây truyền bệnh HIV qua đường tình dục cho bạn tình âm tính với HIV rất thấp.

Sau đây là các nhóm thuốc kháng vi-rút khác nhau thường được sử dụng trong điều trị HIV:

1. Tích hợp chất ức chế chuyển sợi (INSTIs)

INSTI là thuốc ngăn chặn hành động tích hợp. Integrase là một loại enzyme của virus HIV được sử dụng để lây nhiễm tế bào T bằng cách chèn DNA của HIV vào DNA của con người.

Thuốc ức chế Integrase thường được dùng lần đầu tiên một người được chẩn đoán nhiễm HIV.

Thuốc này được đưa ra vì nó được cho là đủ hiệu quả để ngăn chặn số lượng vi rút nhân lên với nguy cơ tác dụng phụ tối thiểu.

Sau đây là các loại chất ức chế tích hợp:

  • Bictegravir (không có thuốc đơn lẻ, nhưng có sẵn kết hợp)
  • Dolutegravir
  • Elvitegravir (không có sẵn dưới dạng thuốc độc lập, nhưng có sẵn kết hợp với thuốc Genvoya và Stribild)
  • Raltegravir

2.Nucleoside / Chất ức chế men sao chép ngược Nucleotide (NRTI)

NRTI là một nhóm thuốc kháng vi rút được sử dụng trong điều trị HIV và AIDS.

Loại thuốc kháng virus này có nhiệm vụ can thiệp vào khả năng sinh sôi của virus trong cơ thể.

Cụ thể hơn, NRTIs hoạt động bằng cách ngăn chặn các enzym HIV sao chép. Thông thường, virus HIV sẽ xâm nhập vào các tế bào của hệ thống miễn dịch. Những tế bào này được gọi là tế bào CD4 hoặc tế bào T.

Sau khi vi rút HIV xâm nhập vào tế bào CD4, vi rút bắt đầu nhân lên hoặc nhân lên. Thông thường, các tế bào khỏe mạnh sẽ chuyển đổi vật chất di truyền từ DNA sang RNA.

Tuy nhiên, virus HIV khi xâm nhập vào cơ thể sẽ biến đổi vật chất di truyền thành ngược lại, cụ thể là từ RNA sang DNA. Quá trình này được gọi là phiên mã ngược và yêu cầu một loại enzyme gọi là men phiên mã ngược.

Cách thức hoạt động của thuốc NRTI là ngăn chặn các enzym sao chép ngược virus sao chép RNA thành DNA. Không có DNA, HIV và AIDS không thể sinh sản.

Thuốc NRTI cho HIV và AIDS thường bao gồm 2-3 sự kết hợp của các loại thuốc sau

  • Abacavir, lamivudine và zidovudine
  • Abacavir và lamivudine
  • Emtricitabine và tenofovir alafenamide fumarate
  • Emtricitabin và tenofovir disoproxil fumarate
  • Lamivudine và tenofovir disoproxil fumarate
  • Lamivudine và zidovudine

3. Thuốc ức chế Cytochrome P4503A (CYP3A)

Cytochrome P4503A là một loại enzym trong gan giúp thực hiện một số chức năng của cơ thể. Enzyme này có thể bị phá vỡ hoặc thuốc xâm nhập vào cơ thể.

Phương pháp điều trị bằng CYP3A là làm tăng chức năng của nồng độ thuốc điều trị HIV và các loại thuốc không HIV khác xâm nhập vào cơ thể. Nhờ đó, hiệu quả điều trị càng tối ưu hóa tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Dưới đây là một số ví dụ về thuốc ARV thuộc loại CYP3A:

  • Cobicistat (Tybost)
  • Ritonavir (Norvir)

Cobicistat dùng một mình hoặc không kết hợp với các loại thuốc khác không thể hoạt động như một chất chống HIV tối đa. Vì vậy, anh ta luôn được kết hợp với các loại thuốc ARV khác, ví dụ như với thuốc ritonavir.

Thuốc ritonavir về cơ bản có thể hoạt động như một loại thuốc kháng retrovirus khi được sử dụng một mình.

Tuy nhiên, khi dùng một mình, cả hai loại thuốc phải được sử dụng với liều lượng khá cao. Đó là lý do tại sao, cả hai thường được kết hợp để tối ưu hóa việc điều trị HIV và AIDS.

4. Chất ức chế protease (PI)

Thuốc ức chế protease là một trong những loại thuốc điều trị HIV và AIDS hoạt động bằng cách liên kết với enzyme protease.

Để có thể sao chép virus trong cơ thể, HIV cần một loại enzyme protease. Vì vậy, khi protease bị ràng buộc bởi các loại thuốc ức chế protease, vi rút HIV sẽ không thể tạo ra các bản sao mới của vi rút.

Điều này rất hữu ích để giảm số lượng vi rút HIV có thể lây nhiễm sang các tế bào khỏe mạnh hơn.

Các loại thuốc sau đây là chất ức chế protease được sử dụng để điều trị HIV và AIDS, bao gồm các loại thuốc sau:

  • Atazanavir
  • Darunavir
  • Fosamprenavir
  • Lopinavir (không có sẵn dưới dạng thuốc độc lập, nhưng có sẵn với ritonavir kết hợp với thuốc Kaletra)
  • Ritonavir
  • Tipranavir

Các chất ức chế protease hầu như luôn được sử dụng kết hợp với cobicistat hoặc ritonavir, là một phần của nhóm thuốc CYP3A.

Trên thực tế, thuốc PI có thể được dùng như một loại thuốc duy nhất, nhưng các bác sĩ luôn kê đơn bằng cách cho các loại thuốc kháng vi-rút khác để làm cho thuốc hiệu quả hơn.

5. Thuốc ức chế nhập cảnh

Sử dụng điều trị chất ức chế nhập cảnh hoạt động bằng cách ngăn chặn vi rút HIV và AIDS xâm nhập vào các tế bào T khỏe mạnh. Tuy nhiên, loại thuốc này hiếm khi được sử dụng như là dòng điều trị đầu tiên cho HIV.

Có 3 loại thuốc chất ức chế nhập cảnh điều này cũng có thể giúp làm giảm HIV và AIDS.

Chất ức chế nhiệt hạch

Thuốc ức chế kết hợp là một loại thuốc khác được bao gồm trong liệu pháp điều trị HIV. HIV yêu cầu một loạt các tế bào T để nhân lên.

Chà, các chất ức chế phản ứng tổng hợp có tác dụng ngăn chặn vi rút HIV và AIDS xâm nhập vào tế bào T của vật chủ. Điều này là do các chất ức chế hợp nhất ngăn không cho vi rút HIV sinh sản. Hiện chỉ có một chất ức chế phản ứng tổng hợp, đó là enfuvirtide (Fuzeon).

Thuốc ức chế sau đính kèm

Ibalizumab-uiyk (Trogarzo) là một loại thuốc thuộc loại chất ức chế bài đính kèm. Loại thuốc này đã được sử dụng ở Mỹ thông qua một số nghiên cứu trước đây do BPOM của nước này tiến hành.

Những loại thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn vi rút nhân lên cũng như ngăn không cho HIV xâm nhập vào một số tế bào có thể làm mất ổn định hệ thống miễn dịch.

Để điều trị tối ưu HIV và AIDS, thuốc này phải được sử dụng cùng với các thuốc ARV khác.

Thuốc đối kháng thụ thể lõi chemokine (chất đối kháng CCR5)

Thuốc đối kháng CCR5 là một loại thuốc điều trị HIV và AIDS hoạt động bằng cách ngăn chặn vi rút HIV xâm nhập vào các tế bào miễn dịch.

Tuy nhiên, loại thuốc kháng retrovirus này vẫn chưa được chỉ định chắc chắn trong điều trị HIV và cần được nghiên cứu thêm.

Thuốc đối kháng CCR5 hiện có là maraviroc (Selzentry).

Tác dụng phụ của điều trị bằng thuốc điều trị HIV và AIDS

Mặc dù bắt buộc phải uống mỗi ngày, nhưng việc uống thuốc ARV có tác dụng phụ. Thông thường, các tác dụng phụ sẽ xảy ra sau khi dùng thuốc lần đầu.

Dưới đây là một số tác dụng phụ có thể xảy ra:

  • Bệnh tiêu chảy
  • Chóng mặt
  • Đau đầu
  • Người nhiễm HIV dễ mệt mỏi
  • Buồn nôn
  • Sốt HIV
  • Phát ban
  • Bịt miệng

Những loại thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ trong vài tuần đầu tiên. Nếu các tác dụng phụ trở nên tồi tệ hơn hoặc kéo dài hơn một vài tuần, bạn nên hỏi ý kiến ​​bác sĩ thêm.

Bác sĩ có thể đề xuất một số mẹo và cách để giảm bớt tác dụng phụ của việc điều trị HIV và AIDS. Nếu cần, bác sĩ có thể kê các loại thuốc khác nhau tùy theo nhu cầu của bạn.

Ngoài ra, dùng nhiều hơn một loại thuốc ARV cũng giúp ngăn ngừa các tác dụng phụ của thuốc ARV và kháng lại một trong các loại thuốc đã sử dụng.

Việc điều trị ARV cần được thực hiện càng sớm càng tốt sau khi được chẩn đoán nhiễm HIV. Điều này là do điều trị bằng thuốc ARV được kỳ vọng sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân HIV / AIDS.

Bằng cách đó, PLWHA có thể sống một cuộc sống bình thường và tránh được các bệnh nhiễm trùng cơ hội gây ra AIDS.


x
5 lựa chọn thuốc điều trị HIV được sử dụng để điều trị HIV / thuốc hỗ trợ

Lựa chọn của người biên tập