Mục lục:
- Loại bệnh đậu mùa do varicella-zoster gây ra
- 1. Thủy đậu (thủy đậu)
- Điều trị thủy đậu
- 2. Bệnh giời leo (tấm lợp)
- Điều trị bệnh zona
- Loại bệnh đậu mùa thuộc họ vi rút đậu mùa
- 1. Bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa)
- 2.Monkey pox (bệnh đậu mùa khỉ)
- 3. U mềm lây
Hầu hết mọi người có lẽ chỉ biết một dạng bệnh đậu mùa, đó là bệnh thủy đậu. Thủy đậu hay thủy đậu thực sự là một bệnh da liễu truyền nhiễm phổ biến nhất. Hầu hết các trường hợp mắc bệnh thủy đậu đều xảy ra ở trẻ em. Tuy nhiên, bạn có biết liệu mình có nguy cơ mắc một loại bệnh đậu mùa khác trong tương lai sau khi khỏi bệnh này hay không, cụ thể là bệnh zona? Đúng. Có một số loại bệnh đậu mùa khác với các mức độ nghiêm trọng khác nhau nên cần phải hết sức đề phòng.
Loại bệnh đậu mùa do varicella-zoster gây ra
Nhiễm virus varicella-zoster có thể gây ra hai loại bệnh đậu mùa, đó là thủy đậu và bệnh giời leo hoặc bệnh giời leo. Loại virus này ban đầu lây nhiễm qua đường hô hấp sau đó lan truyền trong mạch máu và gây nhiễm trùng ở mô da.
Cả bệnh thủy đậu và bệnh zona đều gây ra các triệu chứng đặc trưng riêng mặc dù nguyên nhân là giống nhau. Vì vậy, các bước điều trị cũng khác nhau. Làm thế nào mà cùng một bệnh nhiễm virut lại sinh ra các loại bệnh ngoài da?
1. Thủy đậu (thủy đậu)
Triệu chứng chính của bệnh thủy đậu là xuất hiện phát ban trên da dưới dạng các nốt đỏ gây cảm giác ngứa ngáy dữ dội. Một đến hai ngày trước khi xuất hiện các triệu chứng chính, những người bị nhiễm loại bệnh đậu mùa này đầu tiên sẽ bị sốt và các triệu chứng giống như cúm.
Trong vòng vài ngày, phát ban sẽ biến thành các mụn nước hoặc các nốt tròn chứa đầy dịch. Sau đó, sợi đàn hồi sẽ xẹp xuống thành các nốt sẩn trước khi khô lại để tạo thành vảy.
Thủy đậu là một loại bệnh tự giới hạn, nghĩa là nhiễm trùng bệnh này có thể tự lành. Tiến triển của bệnh thủy đậu cho đến khi vảy tự bong ra và trong vòng 24 giờ không xuất hiện các nốt ban trên da nữa, thường diễn ra trong 2 - 3 tuần.
Điều trị thủy đậu
Điều trị loại đậu mùa này nhằm mục đích rút ngắn thời gian lây nhiễm để bệnh nhanh lành hơn, cũng như kiểm soát các triệu chứng. Tuy nhiên, bệnh này hoàn toàn có thể phòng ngừa được thông qua việc tiêm phòng.
Đối với các triệu chứng sốt ban đầu, sử dụng thuốc giảm đau như acetaminophen có thể là một lựa chọn. Trong khi đó, thuốc kháng vi-rút như acyclovir tập trung vào việc ức chế nhiễm trùng có thể được tiêm trong vòng 24 giờ sau khi phát ban da đầu tiên xuất hiện.
Cảm giác ngứa ngáy do loại đậu mùa này gây ra có thể rất khó chịu, đặc biệt là vào ban đêm, khiến người bệnh không ngừng gãi vùng da bị bệnh. Do đó, bác sĩ cũng thường cho các loại thuốc như thuốc kháng histamine.
Ngoài việc sử dụng thuốc chữa bệnh thủy đậu, có nhiều bước chăm sóc hỗ trợ khác nhau để khắc phục căn bệnh này, một trong số đó là cách tắm lá thủy đậu bằng hỗn hợp. cháo bột yến mạch và muối nở.
2. Bệnh giời leo (tấm lợp)
Loại thủy đậu này cũng thường được gọi là tấm lợp hoặc bệnh zona do phát ban trên da có màu đỏ tươi và kiểu lan rộng tập trung lại và cuộn lại ở một vùng trên cơ thể.
Nhiều người nghi ngờ rằng ai đó sẽ mắc bệnh zona khi một người đã bị nhiễm bệnh thủy đậu lần thứ hai. Trên thực tế, bệnh zona không phải do tái nhiễm vi rút varicella-zoster.
Khi bạn bị thủy đậu và khỏi bệnh, vi-rút sẽ không biến mất khỏi cơ thể bạn. Virus varicella-zoster có thể sống và "ngủ" trong hệ thần kinh trong nhiều năm trước khi tái hoạt động thành bệnh zona.
Rất dễ phân biệt giữa bệnh zona và bệnh thủy đậu. Ngoài kiểu phát ban lan rộng, loại bệnh thủy đậu này còn gây đau và cảm giác bỏng rát trên da. Tình trạng này là do các tế bào thần kinh bị tổn thương do sự tái hoạt của virus.
Điều trị bệnh zona
Loại bệnh đậu mùa này thường gặp ở những người trên 60 tuổi. Tuy nhiên, những người có hệ thống miễn dịch bị suy giảm dai dẳng, chẳng hạn như phụ nữ mang thai và người nhiễm HIV / AIDS cũng có nguy cơ mắc bệnh zona cao.
Ngoài việc sử dụng thuốc kháng vi-rút như acyclovir, để giảm đau, việc điều trị bệnh zona thường được kết hợp với các loại thuốc corticosteroid như prednisone và thuốc giảm đau. Liều lượng cần thiết sẽ được bác sĩ điều chỉnh theo mức độ nghiêm trọng của cơn đau.
Loại bệnh đậu mùa thuộc họ vi rút đậu mùa
Virus thuộc giống Orthopoxvirus gây bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa), thủy đậu và u mềm lây gây ra các triệu chứng chính của một bệnh ngoài da tương tự như bệnh thủy đậu.
Ba loại bệnh đậu mùa này thực sự không phổ biến ở Indonesia, trên thực tế, một trong những loại bệnh này đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố tuyệt chủng vào cuối những năm 1980.
Không giống như bệnh thủy đậu và bệnh zona thường ảnh hưởng đến một số nhóm tuổi nhất định, loại bệnh đậu mùa này có thể gây hại cho bất kỳ ai. Mỗi loại có tiêu chí bệnh cụ thể, thường được phân biệt bằng các triệu chứng.
Đậu mùa là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất trước khi có vắc-xin, đậu khỉ có mức độ bệnh nghiêm trọng, trong khi u mềm lây có khả năng trở thành bệnh lây truyền qua đường tình dục khi nó tấn công bộ phận sinh dục.
Sau đây là giải thích về các triệu chứng, nguyên nhân và phương pháp điều trị ba loại bệnh đậu mùa.
1. Bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa)
Vi rút gây bệnh đậu mùa hoặc bệnh đậu mùa là variola. Đặc điểm chính của bệnh đậu mùa là các nốt mụn nước hoặc mụn nước có mủ lan rộng khắp cơ thể. Các triệu chứng tương tự như bệnh thủy đậu, không phải hiếm khi cả hai thường được đánh đồng với nhau.
Tuy nhiên, loại bệnh đậu mùa này đã được tuyên bố tuyệt chủng từ năm 1980. Trường hợp cuối cùng được ghi nhận mắc bệnh này là ở châu Phi vào năm 1977. Trước đó, bệnh đậu mùa đã trở thành một dịch bệnh nguy hiểm cướp đi sinh mạng của nhiều người từ thế kỷ 18.
Việc loại bỏ bệnh đậu mùa là một trong những thành tựu to lớn của thế giới y học, điều này không thể tách rời với chương trình vắc xin đậu mùa không ngừng được thực hiện trong nhiều thập kỷ. Vắc xin đậu mùa là vắc xin đầu tiên được sản xuất để ngăn chặn một căn bệnh do nhiễm vi rút gây ra.
Không có phương pháp điều trị cụ thể cho loại bệnh đậu mùa này. Mặc dù vắc-xin có thể được sử dụng để phòng ngừa các bệnh tương tự, nhưng ngày nay vắc-xin đậu mùa có thể khó kiếm được do sự khan hiếm của loại đậu mùa này.
2.Monkey pox (bệnh đậu mùa khỉ)
Đậu khỉ Akabệnh đậu mùa khỉlà một bệnh truyền nhiễm do nhiễm virus hiếm gặp. Vi rút này là vi rút lây truyền từ động vật hoặc vi rút có nguồn gốc động vật. Trước đây khỉ là vật chủ chính của virusbệnh đậu mùa khỉ. Vì vậy, bệnh này được gọi là bệnh đậu khỉ.
Các triệu chứng của bệnh này thường tương tự như các triệu chứng của bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa), nhưng kèm theo các vấn đề sức khỏe như sốt, phát ban da phồng rộp và sưng hạch bạch huyết ở nách.
Từ các trường hợp đậu khỉ đã được tìm thấy. Sự lây truyền của loại bệnh đậu mùa này ban đầu diễn ra từ sự tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp giữa người và động vật hoang dã bị nhiễm bệnh.
Trong khi đó, việc lây truyền bệnh đậu khỉ giữa người được cho là xảy ra khi tiếp xúc trực tiếp với các tổn thương da, dịch cơ thể, các giọt niêm mạc tiết ra khi hắt hơi và ho, và tiếp xúc với vật liệu bị nhiễm vi rút đậu trái khỉ.
Sự nguy hiểm của căn bệnh này có thể được ngăn chặn hiệu quả thông qua vắc xin. Trong khi đó, thuốc kháng vi-rút để điều trị bệnh thủy đậu vẫn đang được nghiên cứu thêm. Các loại cidofovir hoặc tecovirimate cho đến nay vẫn là thuốc kháng vi-rút hiệu quả giúp chữa khỏi trong một số trường hợp. Thuốc chủng ngừa đậu mùa có thể giúp ngăn ngừa loại bệnh đậu mùa này.
3. U mềm lây
Nhiễm trùng u mềm lây gây phát ban hoặc phát ban đỏ. Các nốt này thường có kích thước từ 2-5 mm với một đốm ở giữa.
Những nốt nhỏ này có thể xuất hiện trên da ở bất kỳ bộ phận nào của cơ thể bị ảnh hưởng bởi vi rút, chẳng hạn như trên mặt, mí mắt, nách, thân và đùi (bẹn). Không giống như các loại đậu mùa khác, triệu chứng này không xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và miệng.
Sự xuất hiện của các nốt mụn thường không kèm theo tình trạng viêm nhiễm, trừ khi bạn gãi vào vùng da bị ảnh hưởng, các triệu chứng của các nốt mụn sẽ lan rộng theo hình hàng, tình trạng này được gọi là bệnh rôm sảy.
Nếu loại đậu mùa này xuất hiện trên mí mắt, nó có thể gây ra các triệu chứng của bệnh đau mắt đỏ cũng dễ lây lan.
U mềm lây sẽ tự khỏi sau vài tuần. Loại đậu mùa này thường không để lại sẹo.