Mục lục:
- Lịch sử ngắn gọn về việc phát hiện ra vắc xin đậu mùa
- Cách sử dụng và liều lượng vắc xin đậu mùa
- Tại sao cần phải tiêm vắc xin đậu mùa?
- Bạn vẫn cần tiêm vắc xin này chứ?
- Tác dụng phụ của vắc xin thủy đậu
- Ai cần chủng ngừa này?
- Ai không nên chủng ngừa bệnh đậu mùa?
Tiêm chủng là loại thuốc hiệu quả nhất để phòng ngừa các bệnh do vi rút gây ra. Vắc xin có chức năng xây dựng khả năng miễn dịch trong hệ thống miễn dịch của cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng do vi rút gây ra. Hiện nay, có nhiều loại vắc xin khác nhau có thể ngăn ngừa các bệnh nguy hiểm khác nhau. Tuy nhiên, tất cả bắt đầu với việc phát hiện ra loại vắc-xin đầu tiên thành công trong việc diệt trừ bệnh đậu mùa hoặc bệnh đậu mùa.
Lịch sử ngắn gọn về việc phát hiện ra vắc xin đậu mùa
Vắc xin đậu mùa là vắc xin đầu tiên thành công trong việc bảo vệ cơ thể chống lại sự lây nhiễm của vi rút gây bệnh. Loại vắc-xin này được phát hiện bởi một bác sĩ người Anh, Edward Jenner, vào năm 1776.
Trong lịch sử của vắc xin, khái niệm tiêm phòng được phát hiện từ đại dịch đậu bò đang diễn ra.
Như đã viết trong bài báo Thuốc chủng ngừa đậu mùa: Tốt, xấu và xấu, tại thời điểm đó, dr. Jenner đã tiến hành các thí nghiệm trên một số người sử dụng vi rút đậu bò (bệnh đậu bò) để cung cấp hiệu ứng miễn dịch chống lại sự nhiễm vi rút variola gây ra bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa).
Từ kết quả của thí nghiệm, 13 người từng bị nhiễm bệnh đậu mùa sau đó đã có miễn dịch chống lại bệnh đậu mùa. Việc phát hiện ra dr. Jenner sau đó được sử dụng làm cơ sở để nghiên cứu sản xuất vắc xin đậu mùa.
Cách sử dụng và liều lượng vắc xin đậu mùa
Các loại vắc-xin khác bao gồm các thành phần di truyền bị suy yếu của vi rút gây bệnh. Tuy nhiên, vắc-xin đậu mùa được làm từ vi-rút vacxin, một loại vi-rút cùng họ với vi-rút Variola nhưng ít nguy hiểm hơn.
Hiện nay vắc xin phòng bệnh đậu mùa được biết đến là vắc xin thế hệ thứ hai, cụ thể là ACAM2000. Vắc xin này có chứa vi rút sống, do đó việc sử dụng vắc xin cần phải được thực hiện cẩn thận để không làm vi rút lây truyền bệnh.
Cách hoạt động của vắc-xin là làm cho hệ thống miễn dịch của bạn xây dựng một lớp bảo vệ chống lại vi-rút đậu mùa. Khi vi rút đậu mùa xâm nhập và cố gắng lây nhiễm vào cơ thể, hệ thống miễn dịch có thể ngay lập tức xua vi rút phá hủy các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể.
Hiệu quả của vắc-xin này trong việc ngăn ngừa nhiễm vi-rút variola đạt tới 95 phần trăm. Ngay cả vắc-xin cũng khá hiệu quả trong việc giảm nhiễm trùng nếu được tiêm trong vòng vài ngày sau khi một người tiếp xúc với vi-rút variola.
Một liều vắc-xin sẽ được tiêm bằng kỹ thuật tiêm đặc biệt. Theo CDC, vắc-xin đậu mùa có thể bảo vệ hiệu quả từ 3 đến 5 năm.
Sau đó, khả năng bảo vệ của vắc xin sẽ giảm từ từ nên bạn cần tiêm tăng cường hoặc tiêm chủng tiếp theo.
Tại sao cần phải tiêm vắc xin đậu mùa?
Thuốc chủng ngừa đậu mùa có thể ức chế hoặc thậm chí ngăn chặn sự lây truyền của bệnh này. Mặc dù sự lây truyền của bệnh đậu mùa không dễ dàng như bệnh thủy đậu nhưng nguy cơ lây truyền rất cao ở những người thường xuyên phản ứng và tiếp xúc gần gũi với người mắc bệnh.
Tiếp xúc vật lý với vết loét trên da do bệnh đậu mùa có thể truyền bệnh trực tiếp. Tương tự như vậy với việc tiếp xúc với các giọt niêm mạc tiết ra khi người bị bệnh đậu mùa hắt hơi và ho.
Thành công của vắc-xin đậu mùa là không chỉ ngăn chặn sự lây nhiễm vi-rút trong cơ thể mà còn loại bỏ hoàn toàn sự hiện diện của căn bệnh này.
Tiêm phòng đậu mùa được thực hiện từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 20 đã thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan và loại bỏ bệnh đậu mùa ở mọi nơi trên thế giới. Trường hợp bệnh đậu mùa cuối cùng được tìm thấy ở Congo vào năm 1977.
Bạn vẫn cần tiêm vắc xin này chứ?
Sau khi được WHO chính thức tuyên bố tuyệt chủng vào năm 1980, bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa) gây ra bởi vi rút variolla không còn được tìm thấy trong các trường hợp.
Chương trình tiêm chủng cho bệnh đậu mùa không còn được ưu tiên nữa nên hầu như rất khó để có được vắc xin vào thời điểm này. Sau đó, virus được sử dụng cho các mục đích nghiên cứu y tế.
Tuy nhiên, nhận thức về bệnh đậu mùa đã được nâng cao trở lại sau mối đe dọa và sự kinh hoàng của việc sử dụng vi rút variola như một vũ khí sinh học.
Báo cáo từ The Lancet, vào năm 2002, Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) một lần nữa tăng cường cung cấp vắc xin đậu mùa để đề phòng sự tái phát của đợt bùng phát dịch bệnh này.
Tác dụng phụ của vắc xin thủy đậu
Mỗi sản phẩm y tế luôn có tác dụng phụ. Mặc dù chúng được tạo ra từ vi rút sống, tác dụng phụ của vắc xin không nghiêm trọng.
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm sốt, mẩn đỏ và sưng tấy ở vùng da bạn được tiêm. Ngoài ra, một tỷ lệ nhỏ người cũng bị nổi mẩn đỏ quanh vùng tiêm.
Trong khi đó, theo FDA, các tác dụng phụ nghiêm trọng có thể xảy ra khi sử dụng vắc xin này là nguy cơ viêm và sưng các tế bào tim, cũng như các bệnh như viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim.
Những nhóm người có tình trạng sức khỏe nhất định có thể có phản ứng với tác dụng phụ của vắc xin khá nguy hiểm.
Để làm được điều đó, bạn cần biết ai là những người cần chủng ngừa bệnh đậu mùa và ai là người nên tránh tiêm chủng trước.
Ai cần chủng ngừa này?
Khi không có dịch bệnh đậu mùa, những nhóm người nên chủng ngừa là:
- Nhân viên phòng thí nghiệm tham gia vào nghiên cứu sử dụng vi rút variola.
- Người lao động cần được chủng ngừa thêm một loại vắc-xin (tăng cường) trong vòng 3 năm tới.
Ngoài ra, một số nhóm khác được khuyến khích tham gia vào chương trình tiêm chủng bệnh đậu mùa khi dịch bệnh bùng phát là:
- Bất kỳ ai tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh đậu mùa.
- Trẻ em dưới 13 tuổi chưa từng mắc bệnh đậu mùa.
- Người lớn chưa bao giờ chủng ngừa hoặc chưa bao giờ mắc bệnh đậu mùa.
- Ngay cả khi bạn đã từng mắc bệnh đậu mùa trước đó, bạn vẫn có thể tiêm phòng để tăng khả năng miễn dịch chống lại căn bệnh này.
Ai không nên chủng ngừa bệnh đậu mùa?
Tất cả những người bị bệnh đều không nên chủng ngừa bệnh đậu mùa. Bạn phải đợi cho đến khi bạn khỏi bệnh trước rồi mới có thể đi tiêm phòng.
Sau đây là danh sách những người không thể nhận vắc xin:
- Phụ nữ mang thai vì cho đến nay vẫn chưa biết tác dụng phụ của vắc xin này trên phụ nữ mang thai đến thai nhi.
- Những người bị dị ứng với gelatin. Tuy nhiên, có những loại vắc xin có thành phần vắc xin không chứa gelatin.
- Người bị rối loạn hệ thống miễn dịch.
- Những người gần đây đã nhận steroid liều cao.
- Những người đang được điều trị ung thư bằng tia X, thuốc và hóa trị.
- Những người vừa được truyền máu hoặc nhận các sản phẩm liên quan đến máu. Người đó chỉ có thể nhận vắc-xin này 5 tháng sau khi được truyền máu hoặc nhận các sản phẩm liên quan đến máu.
x