Mục lục:
- Hội chứng Miller Fisher là gì?
- Nguyên nhân gây ra hội chứng Fisher?
- Ai có nguy cơ mắc chứng rối loạn thần kinh này?
- Các triệu chứng của hội chứng Miller Fisher là gì?
- Các lựa chọn điều trị cho hội chứng Miller Fisher là gì?
Đối với hầu hết mọi người, mỉm cười, đi bộ, thậm chí chớp mắt không cần nhiều năng lượng. Bạn thậm chí có thể thực hiện những chức năng cơ bản này của cơ thể mà không cần suy nghĩ vì chúng được điều chỉnh bởi sự phối hợp tốt giữa thần kinh và cơ. Tuy nhiên, điều này không được chia sẻ bởi một số ít những người mắc hội chứng Miller Fisher.
Hội chứng Miller Fisher là gì?
Tên hội chứng Miller Fisher được lấy từ tên của người phát hiện ra nó, dr. C. Miller Fisher. Hội chứng Miller Fisher (MFS) hay gọi tắt là hội chứng Fisher là một trong những "đứa con" của một chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp có tên là hội chứng Guillain-Barre. Cả hai đều là bệnh tự miễn dịch xảy ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể chống lại hệ thống thần kinh khỏe mạnh thay vì chống lại các chất lạ gây bệnh. Tuy nhiên, MFS không nghiêm trọng như hội chứng Guillain-Barre.
Các rối loạn thần kinh điển hình của hội chứng Fisher xảy ra ở hệ thần kinh ngoại vi, và thường phát triển nhanh chóng trong vòng vài ngày. Hội chứng này được đặc trưng bởi 3 vấn đề chính: yếu cơ mặt (mí mắt sụp xuống và khó biểu đạt cảm xúc), phối hợp và giữ thăng bằng kém, và mất phản xạ.
Nguyên nhân gây ra hội chứng Fisher?
Nguyên nhân của hội chứng Fisher vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng thường do nhiễm virus. Thông thường nhất là vi rút cúm hoặc vi rút gây viêm dạ dày ruột (cúm dạ dày). Các triệu chứng của cảm lạnh thông thường, đơn âm, tiêu chảy hoặc các bệnh khác thường được báo cáo là có trước các triệu chứng của MFS.
Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng các kháng thể do cơ thể tạo ra khi chống lại nhiễm trùng có thể gây ra tổn thương cho lớp vỏ myelin dẫn truyền các dây thần kinh ngoại vi. Hệ thống thần kinh ngoại vi kết nối hệ thống thần kinh trung ương với các cơ quan cảm giác, chẳng hạn như mắt và tai, và với các cơ quan khác như cơ, mạch máu và các tuyến.
Khi myelin bị tổn thương, các dây thần kinh không thể gửi các tín hiệu cảm giác đến các cơ của bộ phận cơ thể mà chúng muốn cử động một cách chính xác. Đó là lý do tại sao yếu cơ là đặc điểm chính của hội chứng này.
Tuy nhiên, không phải ai bị nhiễm virus cũng sẽ tự động mắc hội chứng Fisher. Hội chứng này là một tình trạng rất hiếm. Trong hầu hết các trường hợp vẫn chưa rõ nguyên nhân. Chỉ là, họ đột nhiên xuất hiện triệu chứng Miller Fisher.
Ai có nguy cơ mắc chứng rối loạn thần kinh này?
Báo cáo trên trang Healthline, bất kỳ ai cũng có thể thực sự trải nghiệm MFS, nhưng một số người dễ gặp phải nó hơn.
Những nhóm người dễ gặp Miller Fisher là:
- con trai. Tạp chí của Hiệp hội nắn xương Hoa Kỳ báo cáo rằng nam giới có nguy cơ mắc bệnh Miller Fisher cao gấp đôi so với phụ nữ.
- Trung niên. Độ tuổi trung bình của những người mắc hội chứng này là 43 tuổi.
- Chủng tộc Đông Á, đặc biệt là người Đài Loan hoặc Nhật Bản.
Một số người cũng có thể bị MFS sau khi tiêm chủng hoặc phẫu thuật.
Các triệu chứng của hội chứng Miller Fisher là gì?
Các triệu chứng của MFS thường xảy ra nhanh chóng. Các triệu chứng của hội chứng Miller Fisher thường bắt đầu xuất hiện khoảng một đến bốn tuần sau khi bị nhiễm vi rút. Tốc độ phát triển các triệu chứng là yếu tố phân biệt chúng với các rối loạn thần kinh dần dần khác như Alzheimer, Parkinson hoặc ALS.
MFS thường bắt đầu với sự suy yếu ở các cơ mắt tiến đến phần dưới của cơ thể. Các triệu chứng hội chứng Fisher bao gồm:
- Mất và kiểm soát các chuyển động của cơ thể, bao gồm yếu hoặc các cử động không kiểm soát được.
- Mất phản xạ vận động, đặc biệt là ở đầu gối và cổ chân.
- Nhìn mờ.
- Tầm nhìn kép.
- Cơ mặt bị suy yếu, đặc trưng là khuôn mặt bị xệ xuống.
- Không có khả năng mỉm cười, huýt sáo, nói lắp, khó mở mắt.
- Giảm khả năng cân bằng và phối hợp của cơ thể, dẫn đến khả năng té ngã.
- Nhìn mờ hoặc nhìn đôi.
- Khó đi tiểu, trong một số trường hợp.
Nhiều người bị MFS gặp khó khăn khi đi thẳng hoặc đi rất chậm. Một số thể hiện dáng đi khập khiễng như một con vịt.
Các lựa chọn điều trị cho hội chứng Miller Fisher là gì?
Không có cách chữa trị cụ thể cho hội chứng Miller Fisher. Theo Viện Quốc gia về Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ (NINDS), có hai lựa chọn điều trị chính cho MFS. Đầu tiên là tiêm globulin miễn dịch có chứa protein liều cao vào máu. Mục đích là tăng cường hệ thống miễn dịch chống lại nhiễm trùng và tăng tốc độ phục hồi.
Một phương pháp thay thế là quy trình di chuyển plasmapheresis, một quy trình trao đổi huyết tương để làm sạch máu. Sau khi làm sạch, các tế bào máu được trả lại cơ thể một lần nữa. Thủ tục này có thể mất đến hàng giờ và khó hơn liệu pháp immunoglobulin. Đó là lý do tại sao hầu hết các bác sĩ sẽ ưu tiên tiêm immunogloblin so với plasmaparesis.
Trong hầu hết các trường hợp, điều trị hội chứng Miller Fisher được bắt đầu trong vòng 2-4 tuần kể từ khi xuất hiện các triệu chứng và tiếp tục cho đến 6 tháng. Hầu hết mọi người hồi phục hoàn toàn ngay lập tức sau khi kết thúc liệu pháp. Tuy nhiên, một số người có thể bị ảnh hưởng lâu dài nên các triệu chứng có thể tái phát bất cứ lúc nào, mặc dù chúng hiếm khi xảy ra.